Thuốc kháng sinh là gì? Các công bố khoa học về Thuốc kháng sinh

Thuốc kháng sinh là loại thuốc được sử dụng để chữa trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn. Thuốc kháng sinh tác động vào vi khuẩn bằng cách ngăn chặn quá trình p...

Thuốc kháng sinh là loại thuốc được sử dụng để chữa trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn. Thuốc kháng sinh tác động vào vi khuẩn bằng cách ngăn chặn quá trình phát triển và sinh sản của chúng, hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, thuốc kháng sinh chỉ có hiệu quả trong việc điều trị các bệnh do vi khuẩn gây ra, không giúp chữa các bệnh do virus hoặc nấm gây ra.
Thuốc kháng sinh thuộc một nhóm các hợp chất có khả năng ngăn chặn sự phát triển và sinh sản của vi khuẩn. Cơ chế hoạt động của thuốc kháng sinh phụ thuộc vào loại vi khuẩn mà nó đích đến. Có nhiều cách thuốc kháng sinh tác động lên vi khuẩn, bao gồm:

1. Ngăn chặn quá trình tổng hợp thành tế bào: Một số thuốc kháng sinh có tác dụng ngăn chặn quá trình tổng hợp thành tế bào của vi khuẩn. Chẳng hạn như, nhóm penicillin, cephalosporin, và carbapenem hoạt động bằng cách ngăn chặn vi khuẩn tổng hợp thành tế bào qua việc ức chế một enzyme cần thiết trong quá trình này.

2. Gây tổn thương màng tế bào vi khuẩn: Có một số thuốc kháng sinh có khả năng làm tổn thương màng tế bào vi khuẩn. Chúng làm vi khuẩn mất khả năng sống sót và phân chia. Ví dụ như, polymyxin B và colistin thuộc nhóm các thuốc gây tổn thương màng tế bào.

3. Ức chế quá trình tổng hợp protein: Một số thuốc kháng sinh có tác dụng làm gián đoạn quá trình tổng hợp protein của vi khuẩn. Chẳng hạn như, tetracycline và macrolide ngăn chặn việc tổng hợp protein của vi khuẩn bằng cách ức chế việc kết hợp các chuỗi peptid trong quá trình này.

Tuy thuốc kháng sinh có tác dụng rất hiệu quả trong việc chữa trị nhiễm trùng, nhưng vi khuẩn cũng có khả năng phát triển kháng thuốc. Việc sử dụng không đúng cách hoặc lạm dụng thuốc kháng sinh có thể gây ra sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc, gây khó khăn trong việc điều trị nhiễm trùng trong tương lai. Do đó, việc sử dụng thuốc kháng sinh nên được chỉ định đúng liều lượng và thời gian sử dụng bởi bác sĩ.
Xin lỗi vì bản trả lời trước không đủ chi tiết. Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về thuốc kháng sinh:

1. Phân loại theo cơ chế tác động:
- Thuốc kháng sinh tác động lên thành phần cấu trúc của vi khuẩn: Ví dụ như các loại beta-lactam (như penicillin và cephalosporin) ức chế quá trình tổng hợp thành tế bào của vi khuẩn bằng cách kết hợp với và ức chế hoạt động của enzyme có vai trò trong quá trình này.
- Thuốc kháng sinh tác động lên quá trình chuyển hóa protein: Ví dụ như tetracycline và aminoglycoside ngăn chặn việc tổng hợp protein của vi khuẩn bằng cách can thiệp vào quá trình chuyển hóa, tổng hợp và giải mã chuỗi peptid.
- Thuốc kháng sinh tác động lên quá trình tổng hợp axit nucleic: Ví dụ như quinolone và rifampin tác động vào các enzyme tham gia quá trình tổng hợp axit nucleic của vi khuẩn.
- Thuốc kháng sinh tác động lên màng tế bào: Ví dụ như polymyxin B, colistin và daptomycin gây tổn thương màng tế bào vi khuẩn, làm cho vi khuẩn mất khả năng chống lại sự tấn công từ môi trường bên ngoài.

2. Phân loại theo phổ tác dụng:
- Thuốc kháng sinh phổ rộng (broad-spectrum): Có tác dụng chống lại một loạt các loại vi khuẩn, bao gồm cả vi khuẩn Gram-dương và Gram-âm. Ví dụ như augmentin (amoxicillin + clavulanic acid) và levofloxacin.
- Thuốc kháng sinh phổ hẹp (narrow-spectrum): Chỉ tác động vào một số loại vi khuẩn cụ thể. Ví dụ như penicillin G chỉ tác động vào vi khuẩn Gram-dương.

3. Tầm quan trọng của việc sử dụng đúng và hợp lý thuốc kháng sinh:
- Việc sử dụng thuốc kháng sinh không đúng cách hoặc lạm dụng có thể gây ra sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc.
- Sử dụng không đúng liều lượng hoặc thời gian sử dụng thuốc có thể gây ra nổi mầm nhiễm trùng tái phát và khó điều trị hơn.
- Đảm bảo tuân thủ đúng hướng dẫn của bác sĩ và sử dụng thuốc kháng sinh đúng chỉ định là cách tốt nhất để sử dụng thuốc một cách an toàn và hiệu quả.

Tuy nhiên, lưu ý rằng thông tin chi tiết về các loại thuốc kháng sinh và cơ chế tác động có thể khác nhau một chút tùy theo từng loại và khả năng tương tác của vi khuẩn. Để biết thêm thông tin chính xác và chi tiết về từng loại thuốc, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ hoặc nhà chuyên môn y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thuốc kháng sinh":

Cơ sở dữ liệu Kháng thuốc Kháng sinh Toàn diện Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 57 Số 7 - Trang 3348-3357 - 2013
TÓM TẮT

Lĩnh vực khám phá thuốc kháng sinh và theo dõi các yếu tố kháng kháng sinh mới chưa khai thác đầy đủ sức mạnh của cuộc cách mạng về gen. Mặc dù bộ gen đầu tiên được giải mã của các sinh vật sống tự do là của vi khuẩn, nhưng vẫn còn rất ít công cụ sinh tin học chuyên biệt được phát triển để khai thác khối lượng dữ liệu gen ngày càng tăng liên quan đến các tác nhân gây bệnh. Đặc biệt, có rất ít công cụ để nghiên cứu di truyền và gen của kháng kháng sinh cùng với cách mà chúng ảnh hưởng đến quần thể vi khuẩn, sinh thái và lâm sàng. Chúng tôi đã bắt đầu phát triển các công cụ như vậy dưới hình thức Cơ sở dữ liệu Nghiên cứu Kháng thuốc Kháng sinh Toàn diện (CARD; http://arpcard.mcmaster.ca ). CARD tích hợp các dữ liệu phân tử và chuỗi khác nhau, cung cấp một nguyên tắc tổ chức độc đáo dưới hình thức Ontology Kháng kháng sinh (ARO), và có thể nhanh chóng xác định các gen kháng kháng sinh khả dĩ trong các chuỗi gen chưa được chú thích mới. Nền tảng độc đáo này cung cấp một công cụ tin học kết nối các lo ngại về kháng kháng sinh trong chăm sóc sức khỏe, nông nghiệp và môi trường.

Phân tích bộ gen về đa dạng, cấu trúc quần thể, độc lực và kháng kháng sinh trong Klebsiella pneumoniae, một mối đe dọa cấp bách đối với y tế công cộng Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 112 Số 27 - 2015
Tầm quan trọng

Klebsiella pneumoniae đang nhanh chóng trở nên không thể điều trị bằng cách sử dụng các loại kháng sinh hàng đầu. Điều này đặc biệt gây phiền toái trong các bệnh viện, nơi nó gây ra một loạt các nhiễm khuẩn cấp tính. Để tiếp cận việc kiểm soát vi khuẩn này, đầu tiên chúng ta cần xác định đó là gì và nó biến đổi di truyền như thế nào. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định các chuỗi DNA của các mẫu K. pneumoniae trên toàn thế giới và trình bày một phân tích chi tiết về các dữ liệu này. Chúng tôi cho thấy có một phổ rộng về sự đa dạng, bao gồm sự biến đổi trong các chuỗi được chia sẻ và sự thu được và mất đi của toàn bộ gen. Sử dụng bản thiết kế chi tiết này, chúng tôi cho thấy có sự kết hợp chưa được công nhận giữa sự sở hữu các hồ sơ gen cụ thể liên quan đến độc lực và kháng thuốc kháng sinh và các kết cục bệnh khác nhau được thấy ở K. pneumoniae.

#Klebsiella pneumoniae #đa dạng bộ gen #cấu trúc quần thể #độc lực #kháng thuốc kháng sinh #y tế công cộng #bệnh viện #nhiễm khuẩn cấp tính #gen di truyền #phân tích bộ gen #hồ sơ gen #kết cục bệnh.
Kháng đa kháng thuốc với Colistin trong Acinetobacter baumannii Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 50 Số 9 - Trang 2946-2950 - 2006
TÓM TẮT

Acinetobacter baumannii kháng đa kháng thuốc đã nổi lên như một vấn đề lớn trong lâm sàng trên toàn thế giới và việc sử dụng colistin đang gia tăng như một liệu pháp "cứu cánh". Mức MIC của colistin chống lại A. baumannii chỉ ra hoạt động đáng kể của nó. Tuy nhiên, tình trạng kháng colistin trong A. baumannii đã được báo cáo gần đây. Các clonotype của 16 mẫu A. baumannii lâm sàng và mẫu ATCC 19606 được xác định qua phương pháp điện di gel trường xung (PFGE), và MICs của colistin đã được đo. Kỹ thuật động học tiêu diệt theo thời gian của colistin chống lại A. baumannii ATCC 19606 và mẫu lâm sàng thứ 6 đã được nghiên cứu, và phân tích hồ sơ dân số (PAPs) đã được thực hiện. Sự phát triển của kháng sinh đã được điều tra qua việc chuyển tiếp với hoặc không có phơi nhiễm với colistin. Năm kiểu băng PFGE khác nhau đã được tìm thấy trong các mẫu lâm sàng. MICs của colistin đối với tất cả các mẫu nằm trong khoảng từ 0,25 đến 2 μg/ml. Colistin thể hiện khả năng giết khuẩn phụ thuộc vào nồng độ sớm, nhưng sự phát triển lại của vi khuẩn đã được quan sát sau 24 giờ. PAPs tiết lộ rằng kháng đa kháng thuốc với colistin xảy ra trong 15/16 mẫu lâm sàng. Các quần thể (<0,1% từ bào tử 1008 đến 109 CFU/ml) của ATCC 19606 và hầu hết các mẫu lâm sàng phát triển trong sự hiện diện của colistin 3 đến 10 μg/ml. Bốn lần chuyển liên tiếp của ATCC 19606 trong việc phát triển colistin (lên đến 200 μg/ml) đã làm tăng đáng kể tỷ lệ tiểu quần thể kháng có khả năng phát triển trong sự hiện diện của colistin tại 10 μg/ml từ 0,000023 lên 100%; ngay cả sau 16 lần chuyển trong nước rửa không chứa colistin, tỷ lệ chỉ giảm xuống 2,1%. Điều này đại diện cho bằng chứng đầu tiên về A. baumannii kháng colistin không đồng nhất trong các mẫu lâm sàng "nhạy cảm với colistin". Kết quả của chúng tôi cảnh báo mạnh mẽ rằng A. baumannii kháng colistin có thể xuất hiện phổ biến do các phác đồ liều lượng dưới tối ưu tiềm tàng được khuyến nghị trong thông tin sản phẩm của một số sản phẩm có colistin methanesulfonate.

#Kháng đa kháng thuốc #Colistin #<i>Acinetobacter baumannii</i> #Điện di gel trường xung (PFGE) #Kháng đa kháng thuốc không đồng nhất #MIC #Kỹ thuật tiêu diệt theo thời gian #Phân tích hồ sơ dân số (PAPs) #Thử nghiệm kháng kháng sinh.
Kháng sinh và vi khuẩn kháng kháng sinh: Rủi ro đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng Dịch bởi AI
MDPI AG - Tập 12 Số 12 - Trang 3313

Sự phát thải kháng sinh vào môi trường, cũng như những hậu quả của việc tồn tại các dư lượng kháng sinh kháng khuẩn trong hệ sinh thái, đã trở thành chủ đề của nhiều nghiên cứu trên toàn thế giới. Việc lạm dụng và sử dụng sai kháng sinh là một hiện tượng toàn cầu phổ biến, làm gia tăng đáng kể mức độ kháng sinh trong môi trường và tốc độ lây lan của chúng. Ngày nay, có thể khẳng định rằng việc sản xuất và sử dụng hàng loạt kháng sinh vì những mục đích không phải điều trị y tế có tác động đến cả môi trường và sức khỏe con người. Bài tổng quan này nhằm theo dõi các con đường phân bố kháng khuẩn trong môi trường và xác định các hiệu ứng sinh học của nồng độ dưới ngưỡng ức chế của chúng trong các khoang môi trường khác nhau; đồng thời đánh giá nguy cơ sức khỏe cộng đồng liên quan và các can thiệp chính sách của chính phủ cần thiết để đảm bảo hiệu quả của các kháng sinh hiện có. Sự gia tăng gần đây trong sự quan tâm đối với vấn đề này là do sự tăng vọt đáng kể về số lượng nhiễm trùng do vi khuẩn kháng thuốc gây ra trên toàn cầu. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với phương pháp tiếp cận Sức khỏe Một Thế giới toàn cầu.

#kháng sinh #vi khuẩn kháng thuốc #sức khỏe cộng đồng #môi trường #dư lượng kháng sinh
Sự tương quan giữa kiểu gen kháng thuốc được xác định bằng các phương pháp multiplex PCR và các mẫu nhạy cảm kháng sinh của Staphylococcus aureusStaphylococcus epidermidis Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 44 Số 2 - Trang 231-238 - 2000
TÓM TẮT

Các chủng phân lập lâm sàng của Staphylococcus aureus (tổng cộng 206) và S. epidermidis (tổng cộng 188) từ nhiều quốc gia đã được thử nghiệm bằng các phương pháp PCR đa dạng để phát hiện các gen kháng sinh có liên quan lâm sàng liên quan đến staphylococci. Các gen mục tiêu liên quan đến khả năng kháng lại oxacillin ( mecA ), gentamicin [ aac (6′)- aph (2")], và erythromycin ( ermA , ermB , ermC , và msrA ). Chúng tôi đã tìm thấy sự tương quan gần như hoàn hảo giữa phân tích genotyp và phenotyp cho hầu hết 394 chủng này, cho thấy các mối tương quan sau đây: 98% đối với kháng thuốc oxacillin, 100% đối với kháng thuốc gentamicin, và 98.5% đối với kháng thuốc erythromycin. Các kết quả không nhất quán là (i) tám chủng được xác định dương tính bằng PCR cho mecA hoặc ermC nhưng nhạy cảm với kháng sinh tương ứng dựa trên khuếch tán đĩa và (ii) sáu chủng của S. aureus được xác định âm tính bằng PCR cho mecA hoặc cho bốn gen kháng thuốc erythromycin được lựa chọn nhưng lại kháng với kháng sinh tương ứng. Để chứng minh in vitro rằng tám chủng nhạy cảm mang gen kháng thuốc có thể trở nên kháng thuốc, chúng tôi đã cấy lại các chủng nhạy cảm trên môi trường với các gradient tăng dần của kháng sinh. Chúng tôi đã có thể chọn lọc các tế bào thể hiện kiểu hình kháng thuốc cho tất cả tám chủng này mang gen kháng dựa trên khuếch tán đĩa và xác định MIC. Bốn chủng kháng oxacillin âm tính với mecA đã dương tính với PCR cho blaZ và có kiểu hình của những người sản xuất β-lactamase siêu, điều này giải thích kiểu hình kháng oxacillin ở ngưỡng của chúng. Kháng erythromycin cho hai chủng được xác định âm tính bằng PCR có thể liên quan đến một cơ chế mới. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự hữu ích của các xét nghiệm dựa trên DNA để phát hiện các gen kháng thuốc kháng sinh liên quan đến nhiễm trùng staphylococcal.

#Staphylococcus aureus #Staphylococcus epidermidis #kháng thuốc #gen #multiplex PCR
Tầm quan trọng của sản phẩm tự nhiên từ vi sinh vật và sự cần thiết phải làm sống lại công tác phát hiện của chúng Dịch bởi AI
Oxford University Press (OUP) - - 2014
Tóm tắt

Vi sinh vật là những nhà sản xuất hàng đầu các sản phẩm tự nhiên hữu ích. Các sản phẩm tự nhiên từ vi sinh vật và thực vật là những loại thuốc xuất sắc. Một phần đáng kể trong bộ gen của vi sinh vật được dành cho việc sản xuất những chuyển hóa thứ cấp hữu ích. Một vi sinh vật đơn lẻ có thể sản xuất một số lượng lớn các chuyển hóa thứ cấp, lên đến 50 hợp chất. Các sản phẩm hữu ích nhất bao gồm kháng sinh, tác nhân chống ung thư, thuốc ức chế miễn dịch, nhưng cũng có nhiều sản phẩm cho các ứng dụng khác, ví dụ như thuốc kháng virus, thuốc trị giun sán, chất ức chế enzyme, thực phẩm chức năng, polymer, chất hoạt động bề mặt, thuốc diệt cỏ sinh học và vắc-xin đã được thương mại hóa. Thật không may, do sự giảm sút trong công tác phát hiện sản phẩm tự nhiên, công tác phát hiện thuốc đã giảm sút trong 20 năm qua. Những lý do bao gồm chi phí quá cao cho các thử nghiệm lâm sàng, thời gian quá ngắn trước khi các sản phẩm trở thành thuốc tổng hợp, khó khăn trong việc phát hiện các loại kháng sinh đối kháng với các sinh vật kháng thuốc, và thời gian điều trị ngắn của bệnh nhân đối với các sản phẩm như kháng sinh. Dù phải đối mặt với những khó khăn này, công nghệ để phát hiện thuốc mới đã tiến bộ, ví dụ như hóa học tổ hợp của khung sản phẩm tự nhiên, các phát hiện trong đa dạng sinh học, khai thác gen và sinh học hệ thống. Việc chính phủ kéo dài thời gian trước khi các sản phẩm trở thành thuốc tổng hợp sẽ rất có ích.

#vi sinh vật #sản phẩm tự nhiên #phát hiện thuốc #kháng sinh #trao đổi chất thứ cấp #công nghệ khám phá thuốc
Khả Năng Kháng In Vitro của Rhodococcus equi và Các Tác Nhân Thường Gặp Ở Ngựa Đối Với Azithromycin, Clarithromycin và 20 Chất Kháng Khuẩn Khác Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 47 Số 5 - Trang 1742-1745 - 2003
TÓM TẮT

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định hoạt tính in vitro của azithromycin (AZM), clarithromycin (CLR) và 20 chất kháng khuẩn khác chống lại Rhodococcus equi và các tác nhân gây bệnh vi khuẩn thường gặp ở ngựa khác. Tổng cộng 201 các chủng vi khuẩn từ nhiều mẫu lâm sàng ngựa khác nhau đã được kiểm tra. CLR hoạt động mạnh hơn AZM chống lại R. equi, với nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) mà ở đó 90% các chủng bị ức chế là 0,12 và 1,0 μg/ml, tương ứng. Các chất kháng khuẩn khác có hoạt tính cao chống lại ít nhất 90% các chủng R. equi in vitro bao gồm rifampin, gentamicin và imipenem. Cả AZM và CLR đều cho thấy hoạt tính tốt đối với streptococci beta-hemolytic và Staphylococcus spp. AZM mạnh hơn các macrolides khác đối với Pasteurella spp. và Salmonella enterica.

#Kháng thuốc; Rhodococcus equi; Azithromycin; Clarithromycin; Ngựa; Kháng sinh
Thực hiện và tác động của các chương trình quản lý kháng sinh ở trẻ em: một đánh giá toàn diện có hệ thống Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2020
Tóm tắtĐặt vấn đề

Đại trà sử dụng kháng sinh rất phổ biến trong cộng đồng và trong bệnh viện, với tỷ lệ đáng kể việc sử dụng có thể không thích hợp. Việc lạm dụng kháng sinh làm gia tăng nguy cơ độc tính, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và sự chọn lọc tình trạng kháng thuốc. Mục tiêu chính của đánh giá hệ thống này là tóm tắt tình trạng hiện tại của bằng chứng về việc thực hiện và kết quả của các chương trình quản lý kháng sinh (ASP) cho trẻ em trên toàn cầu.

Phương pháp

Các cơ sở dữ liệu MEDLINE, Embase và Thư viện Cochrane đã được tìm kiếm một cách có hệ thống để xác định các nghiên cứu báo cáo về ASP ở trẻ em từ 0-18 tuổi và được thực hiện trong các thiết lập ngoại trú hoặc nội trú. Ba nhà nghiên cứu đã độc lập xem xét các bài báo đã xác định để đưa vào và rút trích dữ liệu liên quan.

Kết quả

Từ 41,916 nghiên cứu được sàng lọc, 113 nghiên cứu đủ điều kiện đưa vào nghiên cứu này. Phần lớn các nghiên cứu có nguồn gốc từ Hoa Kỳ (52.2%), trong khi một số ít được thực hiện ở châu Âu (24.7%) hoặc châu Á (17.7%). Bảy mươi bốn (65.5%) nghiên cứu sử dụng thiết kế trước và sau, và mười sáu (14.1%) là thử nghiệm ngẫu nhiên. Phần lớn (81.4%) mô tả các ASP trong bệnh viện với một nửa các can thiệp ở các khoa nhi hỗn hợp và mười (8.8%) ở phòng cấp cứu. Chỉ có mười sáu (14.1%) nghiên cứu tập trung vào chi phí của các ASP. Gần như tất cả các nghiên cứu (79.6%) cho thấy sự giảm đáng kể trong các đơn thuốc không phù hợp. Độ tuân thủ sau khi thực hiện ASP đã gia tăng. Mười sáu trong số các nghiên cứu được đưa vào đã định lượng lượng tiết kiệm chi phí liên quan đến can thiệp với hầu hết các mức giảm là do tần suất sử dụng thuốc thấp hơn. Bảy nghiên cứu cho thấy độ nhạy cảm gia tăng của vi khuẩn được phân tích với sự giảm trong các nhà sản xuất beta-lactamase phổ rộng E. coliK. pneumoniae;giảm trong tỷ lệ kháng carbapenem của P. aeruginosađược quan sát sau khi tỷ lệ ngày dùng kháng sinh giảm; và, trong hai nghiên cứu ở thiết lập ngoại trú, sự gia tăng của S. pyogenesnhạy cảm với erythromycin theo sau sự giảm trong việc sử dụng macrolides.

Kết luận

Các ASP cho trẻ em có tác động đáng kể đến việc giảm sử dụng kháng sinh mục tiêu và thực nghiệm, chi phí chăm sóc sức khỏe, và tình trạng kháng kháng sinh trong cả môi trường nội trú và ngoại trú. Các ASP cho trẻ em hiện đã được triển khai rộng rãi tại Hoa Kỳ, nhưng cần rất nhiều sự điều chỉnh hơn nữa để tạo điều kiện cho việc áp dụng của chúng ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ La-tinh và châu Phi.

#kháng sinh #quản lý kháng sinh #trẻ em #chi phí chăm sóc sức khỏe #kháng thuốc
Dầu Tinh Dầu Từ Họ Bạc Hà, Hồ Sơ Tin Sinh Học, Hoạt Động Chống Ôxy Hóa và Sinh Học Dịch bởi AI
Evidence-based Complementary and Alternative Medicine - Tập 2021 - Trang 1-18 - 2021

Các loài cây thuốc và cây thơm chứa các hợp chất hoạt tính quan trọng có tiềm năng sử dụng trong ngành thực phẩm, dược phẩm và nông nghiệp. Trong ý nghĩa này, công trình hiện tại nhằm tiến hành một bài tổng quan tài liệu về các ứng dụng tiềm năng của dầu tinh dầu từ các loài thực vật thuộc họ Lamiaceae. Các hoạt động chống ôxy hóa, chống viêm và kháng khuẩn đã được đánh giá. Tầm quan trọng của nghiên cứu này được thể hiện như một cách để cung cấp thông tin lý thuyết về việc sử dụng các loài thực vật khác nhau thuộc họ Lamiaceae, đặc biệt là liên quan đến các tính chất vật lý, hóa học và sinh học của dầu tinh dầu của chúng.

#cây thuốc #dầu tinh dầu #họ Bạc Hà #hoạt động sinh học #tác dụng chống ôxy hóa #kháng khuẩn #chống viêm
Những Nhận Thức Sớm Về Tương Tác Của Các Kháng Sinh β-Lactam Khác Nhau Và Các Chất Ức Chế β-Lactamase Đối Với Các Dạng Hòa Tan Của PBP1a Acinetobacter baumannii Và PBP3 Acinetobacter sp. Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 56 Số 11 - Trang 5687-5692 - 2012
TÓM TẮT

Acinetobacter baumannii là một tác nhân gây bệnh ngày càng trở nên nghiêm trọng tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ. Số lượng kháng sinh có khả năng điều trị A. baumannii đang ngày càng hạn chế. Rất ít thông tin được biết đến về vai trò của các protein gắn penicillin (PBPs), là mục tiêu của các kháng sinh β-lactam, trong sự nhạy cảm và kháng β-lactam-sulbactam ở A. baumannii . Sự giảm biểu hiện của PBPs cũng như sự mất khả năng gắn β-lactams vào PBPs đã được chứng minh trước đây là góp phần gây ra sự kháng β-lactam ở A. baumannii . Sử dụng một thử nghiệm in vitro với một β-lactam báo cáo, Bocillin, chúng tôi đã xác định rằng nồng độ ức chế 50% (IC 50 s) cho PBP1a từ A. baumannii và PBP3 từ Acinetobacter sp. dao động từ 1 đến 5 μM cho một loạt các β-lactams. Ngược lại, PBP3 thể hiện một khoảng IC 50 hẹp hơn chống lại các chất ức chế β-lactamase so với PBP1a (khoảng, 4 đến 5 so với 8 đến 144 μM, tương ứng). Một mô hình phân tử với ampicillin và sulbactam được định vị tại vị trí hoạt động của PBP3 cho thấy rằng cả hai hợp chất đều tương tác giống nhau với các dư lượng Thr526, Thr528 và Ser390. Chấp nhận rằng nhiều tương tác với các mục tiêu thành tế bào là có thể với sự kết hợp ampicillin-sulbactam, IC 50 thấp của ampicillin và sulbactam đối với PBP3 có thể bật mí lý do vì sao sự kết hợp này có hiệu quả chống lại A. baumannii . Việc phân tích vai trò của PBPs trong sự nhạy cảm và kháng β-lactam sẽ đưa chúng ta gần hơn một bước nữa trong việc xác định những PBPs nào là mục tiêu tốt nhất cho các β-lactams mới.

#Acinetobacter baumannii #kháng sinh β-lactam #pêptit gắn penicillin #kháng β-lactam #chất ức chế β-lactamase #tính nhạy cảm #kháng thuốc.
Tổng số: 132   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10